Bệnh viện ung bướu hà nội

- Nơi gửi gắm niềm tin và hy vọng!

Chụp X-quang thường quy và các xét nghiệm X-quang khác trong chẩn đoán ung thư

Chụp X-quang thường quy và các xét nghiệm X-quang khác (bao gồm các xét nghiệm X-quang có uống, thụt hoặc tiêm thuốc cản quang) giúp bác sĩ phát hiện ung thư ở các cơ quan khác nhau trên cơ thể, bao gồm ung thư xương, ung thư đường tiêu hoá như dạ dày, thực quản, đại tràng và các bệnh lý của thận. Chụp X-quang là xét nghiệm nhanh chóng, không gây đau và không yêu cầu chuẩn bị đặc biệt trước khi chụp. Tuy nhiên, nếu có sử dụng chất cản quang, có thể cần chuẩn bị trước và có thể gây ra khó chịu hoặc một số tác dụng phụ, tùy theo loại xét nghiệm.

Chụp X-quang để làm gì?

Chụp X-quang thu được hình ảnh dạng bóng mờ của xương, một số cơ quan và mô trong cơ thể. X-quang rất hiệu quả trong việc phát hiện các bệnh về xương. Với các cơ quan và mô mềm khác, chụp MRI và CT thường cho hình ảnh rõ nét hơn. Tuy nhiên, chụp X-quang là một xét nghiệm nhanh, dễ thực hiện và ít tốn kém hơn, nên thường được ưu tiên sử dụng trong đánh giá và thăm khám ban đầu. Chụp nhũ ảnh (hay X-quang tuyến vú) cũng là một dạng xét nghiệm X-quang.

Chụp X-quang có sử dụng chất cản quang là một loại xét nghiệm đặc biệt, sử dụng thuốc cản quang chứa iod hoặc barit giúp đánh giá và thu được hình ảnh rõ nét hơn của một số tổn thương đặc biệt ở một số cơ quan trong cơ thể. Ví dụ: chụp khung đại tràng thụt barit, là xét nghiệm chụp X-quang sau khi đại tràng được bơm đầy barisulfat. Chụp niệu đồ tĩnh mạch (IVP), sử dụng thuốc cản quang để khảo sát cấu trúc và chức năng của hệ tiết niệu (niệu quản, bàng quang, thận).

Với sự tiến bộ của công nghệ, nhiều xét nghiệm Xquang có chất cản quang đang dần được thay thế bằng các phương pháp hiện đại như chụp CT hoặc MRI. Ví dụ, trước đây chụp mạch máu (angiography) thường được dùng để xác định giai đoạn và sự lan rộng ung thư, nhưng nay CT và MRI thường được ưu tiên sử dụng do có tính chính xác cao hơn. Tuy vậy, chụp mạch vẫn có thể được sử dụng để xác định nguồn cấp máu của khối u, từ đó hỗ trợ lập kế hoạch phẫu thuật nhằm giảm mất máu, hoặc chẩn đoán các bệnh lý mạch máu không phải ung thư.

X-quang hoạt động như thế nào?

Một ống đặc biệt trong máy X-quang phát ra một chùm tia X được kiểm soát và chiếu vào cơ thể. Các mô trong cơ thể hấp thụ hoặc cản tia X ở mức độ khác nhau. Mô đặc như xương sẽ cản tia nhiều nhất, trong khi mô mềm như mỡ hoặc cơ có độ cản tia ít hơn. Sau khi tia đi qua cơ thể, chùm tia chúng sẽ chiếu vào một tấm phim hoặc đầu dò đặc biệt và máy này sẽ phân tích các thông tin thu được và diễn giải dưới dạng hình ảnh. Các mô cản tia mạnh như xương sẽ hiện lên màu trắng trên nền đen. Mô mềm sẽ hiện ra ở các sắc độ xám khác nhau. Những cơ quan chứa nhiều không khí như phổi sẽ có màu đen trên phim. Các khối u thường đặc hơn mô xung quanh, vì vậy thường hiện lên với sắc xám – là màu sáng hơn so với mô lân cận.

Chụp X-quang có sử dụng chất cản quang cung cấp một số thông tin mà chụp X-quang thông thường không thể hiện rõ. Thuốc cản quang có thể được sử dụng bằng đường uống, đặt qua hậu môn, tiêm vào tĩnh mạch hoặc đưa vào qua ống thông (catheter) đến các mô trong cơ thể. Trên phim X-quang, thuốc cản quang hiện lên là màu trắng, giúp hiện hình rõ nét bộ phận cần khảo sát. Các hình ảnh có thể được lưu trên phim hoặc lưu trữ trên phần mềm máy tính.

Loại xét nghiệm

Cơ quan khảo sát

Đường dùng thuốc cản quang

 

 

Chụp mạch máu (Angiography, angiogram, arteriography, arteriogram)

 

 

Hệ động mạch khắp cơ thể, bao gồm não, phổi, thận

 

 

Qua ống thông

(catheter) đặt vào động mạch

 

Niệu đồ tĩnh mạch (Intravenous pyelogram - IVP)

 

 

Hệ tiết niệu (thận, niệu quản, bàng quang)

 

 

Tiêm vào tĩnh mạch

Chụp khung đại tràng có thụt barit (chụp barit đơn thuần, chụp đối quang kép sử dụng barit, chụp đối quang kép barit có đối quang khí)

Đại tràng, trực tràng

 

 

Qua hậu môn bằng ống đặt (thụt)

 

Chụp đường tiêu hoá trên có uống thuốc cản quang (uống barit, chụp thực quản cản quang, chụp lưu thông ruột non) 

Thực quản, dạ dày, ruột non     

Uống qua đường miệng

Chụp tĩnh mạch (Venography, venogram)      

Tĩnh mạch toàn thân, thường ở chân

Qua ống thông (catheter) đặt vào tĩnh mạch

 

Cần chuẩn bị gì trước khi chụp X-quang?

Đối với chụp X-quang thường quy, ngoài việc tháo bỏ các vật dụng kim loại có thể gây nhiễu ảnh, thì không cần chuẩn bị đặc biệt nào khác. Với các xét nghiệm Xquang có sử dụng chất cản quang sẽ cần một số chuẩn bị đặc biệt, phụ thuộc vào loại xét nghiệm. Bạn có thể được yêu cầu nhịn ăn hoặc làm sạch ruột bằng thụt tháo trước khi chụp. Khoa chẩn đoán hình ảnh hoặc bác sĩ điều trị của bạn sẽ cung cấp các hướng dẫn và lời dặn dò cụ thể tuỳ từng trường hợp – hãy chắc chắn đã hiểu và đọc kỹ các hướng dẫn này.

Chú ý: hãy bảo đảm thông báo cho bác sĩ nếu bạn bị dị ứng với iod hoặc đã từng gặp phản ứng với thuốc cản quang trước đây.

 Việc chụp X-quang diễn ra như thế nào?

Chụp X-quang thường quy

Chụp X-quang thường quy thường do kỹ thuật viên X-quang thực hiện. Bạn cần cởi bỏ quần áo ở vùng cần chụp và mặc áo choàng y tế hoặc khăn choàng; tháo trang sức hoặc các vật kim loại mang theo. Tuỳ thuộc vào vùng cần chụp, bạn sẽ được yêu cầu ngồi, đứng hoặc nằm. Vùng chụp sẽ áp sát vào một hộp phẳng hoặc bàn chứa phim X-quang. Kỹ thuật viên sẽ điều chỉnh máy để chùm tia chiếu đúng vị trí cần khảo sát.

Bạn có thể được che chắn một số bộ phận nhạy cảm nhất định nếu chúng nằm gần vùng chụp để tránh tiếp xúc với tia X. Kỹ thuật viên thường sẽ rời khỏi phòng để điều khiển máy từ xa, nhưng họ vẫn có thể nghe thấy và quan sát bạn. Thời gian tiếp xúc với tia X rất ngắn – thường chưa đến một giây. Bạn có thể nghe tiếng “bíp” hoặc tiếng “tách” khi máy hoạt động.

 Chụp X-quang ngực (phổi) thường gồm 2 tư thế: chụp Xquang ngực thẳng: đứng áp ngực vào phim để chụp phim từ phía sau; chụp Xquang ngực nghiêng: đứng quay ngang với tay giơ lên hoặc đặt trước ngực. Bạn sẽ được hướng dẫn hít sâu và giữ hơi trong lúc chụp. Nếu bệnh nhân không thể đứng được, sẽ chụp X-quang ngực tư thế nằm, khi đó tấm phim sẽ dược đặt dưới lưng.

 Chụp X-quang bụng: bạn sẽ nằm trên bàn, có thể được yêu cầu đổi tư thế hoặc ngồi dậy để có nhiều hướng chụp khác nhau. Cần nằm yên và nín thở trong khoảng thời gian ngắn trong khi chụp.

Sau khi chụp xong, kỹ thuật viên sẽ quay lại phòng, gỡ bỏ tấm che, thu dọn máy móc, và hướng dẫn bạn trở lại phòng thay đồ để mặc lại quần áo.

Các xét nghiệm chụp Xquang có chất cản quang

Chụp mạch máu (Angiography): Bạn sẽ được yêu cầu nhịn ăn trước khi làm xét nghiệm này. Thường bạn sẽ được dùng thuốc an thần nhẹ để thư giãn trong quá trình chụp. Bạn cần nằm yên trên bàn chụp, vùng da nơi đặt ống thông (catheter) sẽ được khử trùng và gây tê. Sau đó, một vết rạch nhỏ trên da được tạo ra để đưa ống thông (catheter) vào mạch máu (thường là động mạch ở bẹn). Khi ống thông đến đúng vị trí, thuốc cản quang được bơm vào lòng mạch, và một loạt ảnh X-quang được chụp để quan sát dòng chảy của thuốc cản quang trong lòng mạch. Cuối cùng, sau khi kết thúc thủ thuật, ống thông sẽ được rút ra.

Có thể cần băng ép tại vị trí chọc để ngăn chảy máu. Bạn cần nằm yên và giữ thẳng chân trong vài giờ sau thủ thuật để giảm nguy cơ chảy máu từ vị trí chọc.

 

Hình 1: Chụp mạch máu gan để xác định nguồn cấp máu cho khối u gan phải,

giúp xác định nhánh mạch nuôi khối u để điều trị nút mạch hoá chất ung thư biểu mô tế bào gan (HCC)

Nguồn: https://www.nucsradiology.com/topics/role-of-nuclear-medicine-in-90y-radioembolization/hepatic-angio-example/

Các phương pháp chụp mạch máu khác: Công nghệ mới như chụp CT mạch máu (CT angiography) hoặc chụp cộng hưởng từ mạch máu (MRA) có thời gian thực hiện nhanh hơn, ít rủi ro hơn so với chụp mạch máu dưới Xquang truyền thống. CT mạch máu dùng thuốc cản quang tiêm vào tĩnh mạch nhỏ ở tay, không cần đặt ống thông vào mạch máu. Chụp cộng hưởng từ mạch máu có thể giúp đánh giá mạch máu mà không cần tiêm hoặc có tiêm thuốc cản quang, thời gian thực hiện cũng nhanh hơn so với chụp mạch máu dưới X-quang truyền thống.

Niệu đồ tĩnh mạch (IVP): Bạn sẽ được yêu cầu nhịn ăn và uống trong 12 giờ trước khi chụp, đồng thời dùng thuốc nhuận tràng để làm sạch ruột. Trong khi chụp, bạn cần nằm trên bàn chụp, thuốc cản quang được tiêm vào tĩnh mạch, sau đó được thận lọc và đào thải thuốc qua đường tiết niệu. X-quang được chụp một vài lần trong khoảng 30 phút để ghi lại hình ảnh của thuốc cản quang trong đường bài xuất của hệ tiết niệu. Đôi khi để thu được hình ảnh rõ nét hơn, cần sử dụng bóng ép để tăng áp lực trong ổ bụng. Khi thuốc bài xuất đến bàng quang, bạn sẽ được yêu cầu đi tiểu, và đồng thời, chụp một phim X-quang trong khi bạn đi tiểu.

 

Hình 2: Minh hoạ chụp niệu đồ tĩnh mạch để đánh giá hệ tiết niệu.

Nguồn: trung tâm y khoa Deep medical centre

Chụp khung đại tràng có thụt barit: Bạn có thể cần ăn kiêng theo chế độ riêng vài ngày trước khi chụp, và phải sử dụng thuốc nhuận tràng hoặc thụt tháo để làm sạch đại tràng. Trong khi chụp, bạn cần nằm yên và được giữ cố định trên bàn chụp. Kĩ thuật viên sẽ chụp phim Xquang trước khi thụt barit, sau đó dung dịch barit được đưa vào đại tràng qua một ống thông mềm đặt vào trực tràng. Khi bơm vào, dung dịch này thường có cảm giác hơi mát. Bàn chụp có thể nghiêng để thuốc cản quang barit lan ra khắp ruột, giúp hình ảnh rõ hơn. Bạn sẽ được yêu cầu nằm yên và nín thở mỗi khi chụp Xquang đánh giá ở các giai đoạn khác nhau. 

Sau khi chụp xong, bạn có thể đi vệ sinh để thải thuốc barit ra ngoài. Có thể mất vài ngày để thải hết thuốc ra ngoài. Phân của bạn có thể nhạt màu, khô và cứng trong vài ngày sau đó. Để có hình ảnh rõ hơn, bác sĩ có thể yêu cầu  chụp đối quang kép khung đại tràng (double-contrast) – đây là xét nghiệm dùng một lượng nhỏ dung dịch barit với nồng độ đặc hơn, sau đó bơm thêm khí vào ruột để tăng độ tương phản. Điều này có thể gây cảm giác đầy bụng, khó chịu và buồn đi vệ sinh.

Hình 3: Chụp đối quang kép khung đại tràng có thụt barit: giúp phát hiện ung thư đại tràng,

khối u gây hẹp lòng ruột tạo hình ảnh “lõi táo”đặc trưng

Nguồn: Hiệp hội chẩn đoán hình ảnh Châu Âu.

Chụp đường tiêu hoá trên có uống thuốc cản quang: Bạn sẽ được yêu cầu nhịn ăn từ 8 đến 12 giờ trước khi chụp. Trong khi chụp, bạn sẽ được nằm cố định trên bàn chụp, bàn chụp có thể nghiêng để dung dịch barit tráng hết trên bề mặt thực quản và dạ dày của bạn. Cần nuốt một vài ngụm dung dịch hỗn hợp barit trong quá trình chụp. (Một số trường hợp có thể dùng chất khác thay barit). Ngoài ra, bạn có thể được yêu cầu nuốt thêm viên sủi bicarbonat để tạo khí trong dạ dày.

 

Hình 4: Phát hiện ung thư đại tràng dạng mảng (mũi tên).

Một số hình ảnh bổ sung có thể được chụp sau vài giờ để đánh giá ruột non – còn gọi là chụp lưu thông ruột non. Sau xét nghiệm này, bạn có thể được cho thuốc nhuận tràng để đẩy nhanh quá trình thải bari ra ngoài, nhưng vẫn sẽ mất vài ngày để thải hết hoàn toàn thuốc ra ngoài. Trong thời gian đó, phân có thể sẽ cứng, khô, nhạt màu.

Chụp tĩnh mạch (Venography)

Bạn sẽ được nằm cố định trên bàn chụp, vùng da nơi đặt ống thông (catheter) sẽ được sát khuẩn và gây tê (thường là một tĩnh mạch nhỏ ở chân hoặc cổ tay, tùy vị trí cần khảo sát). Ống thông có thể được luồn sâu để đi vào một tĩnh mạch lớn hơn, gần với nhánh tĩnh mạch cần khảo sát, hoặc có thể sử dụng dây garô để thuốc cản quang chảy vào các tĩnh mạch sâu hơn. Thuốc cản quang sẽ được tiêm vào để làm cho các tĩnh mạch hiện rõ trên phim X-quang và được ghi nhận bởi một loạt các hình ảnh X-quang được chụp liên tiếp.

Bạn có thể được truyền thêm dịch qua ống thông để hỗ trợ thải thuốc cản quang ra khỏi cơ thể nhanh hơn. Sau đó, ống thông sẽ được rút ra. Có thể cần băng ép tại vị trí đặt ống thông trong một thời gian để giảm nguy cơ chảy máu hoặc tụ máu.

Thời gian thực hiện các xét nghiệm X-quang

·         Chụp X-quang thường quy: khoảng 5 đến 10 phút

·         Chụp mạch (angiogram): khoảng 1 đến 3 giờ

·         Niệu đồ tĩnh mạch (IVP): khoảng 1 giờ

·         Chụp khung đại tràng có thụt barit: 30 đến 45 phút

·         Chụp đường tiêu hoá trên có uống thuốc cản quang: từ 30 phút đến 6 giờ, tùy theo vùng được khảo sát

·         Chụp tĩnh mạch (venogram): 30 đến 90 phút

Tác dụng phụ và biến chứng có thể xảy ra

Chụp X-quang thường quy: Biến chứng hiếm gặp và rất ít xảy ra.

Chụp mạch máu (Angiography): Có thể có cảm giác ấm nóng hoặc rát khi tiêm thuốc cản quang. Thuốc cản quang có thể gây phản ứng như buồn nôn, nôn, bốc hỏa, ngứa hoặc gây cảm giác vị đắng/mặn trong miệng. Rất hiếm khi xảy ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng ảnh hưởng đến hô hấp và huyết động. Thuốc cản quang có thể ảnh hưởng đến chức năng thận, đặc biệt ở người có bệnh thận mạn.

Hiếm khi gặp biến chứng tắc mạch do cục máu đông hình thành tại đầu của ống thông catheter. Có một tỷ lệ nhỏ có biến chứng chảy máu do tổn thương mạch máu khi đặt ống thông. Có thể gặp biến chứng tụ máu dưới da nếu không băng ép vị trí chọc catheter đủ lâu, có nguy cơ nhiễm trùng tại vị trí chọc ống thông. (Các biến chứng tương tự có thể gặp trong chụp mạch CT hoặc MRI)

Ngoài ra, bạn có thể cảm thấy đau mỏi do phải nằm yên trên bàn phẳng trong nhiều giờ. 

Niệu đồ tĩnh mạch (IVP): Một số người có thể bị bốc hỏa, ngứa nhẹ hoặc vị đắng/mặn trong miệng. Rất hiếm khi xảy ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng cần cấp cứu.

Chụp khung đại tràng có thụt barit: Có thể gây khó chịu hoặc co thắt bụng. Nhiều bệnh nhân báo cáo cảm giác mệt mỏi sau xét nghiệm. Phân sẽ nhạt màu trong vài ngày và bạn có thể bị táo bón. Thụt barit hiếm khi gây biến chứng tắc ruột hoặc đầy bụng.

Chụp đường tiêu hoá trên có uống thuốc cản quang (Chụp dạ dày - thực quản – ruột non uống barit): Hỗn hợp barit có độ đặc như sữa và cảm giác hơi lợn cợn. Viên sủi bicarbonat có thể gây đầy hơi, ợ hơi. Sau khi chụp, phân có thể nhạt màu trong vài ngày và bạn có thể bị táo bón. Thuốc barit hiếm khi gây biến chứng tắc ruột.

Chụp tĩnh mạch (Venography): Bạn có thể cảm thấy cảm giác ấm hoặc bỏng rát khi tiêm thuốc. Vị trí đặt ống thông (catheter) như tay hoặc chân có thể có cảm giác tê bì nhẹ. Bệnh nhân có thể có cảm giác vị mặn hoặc đắng trong miệng trong quá trình tiêm. Một vài trường hợp hiếm có phản ứng dị ứng nặng với thuốc cản quang như khó thở, hạ huyết áp. Thuốc cản quang cũng có thể gây ra tổn thương thận, mặc dù hiếm, thường xảy ra ở các bệnh nhân suy thận.  

Hiếm khi có biến chứng hình thành cục máu đông, tổn thương mạch máu, hay chảy máu. Có thể gặp biến chứng bầm tím hoặc nhiễm trùng tại vị trí chọc kim.

Những điều khác cần lưu ý

  • Hãy báo cho bác sĩ biết nếu bạn đang mang thai hoặc đang cho con bú trước khi làm bất kỳ xét nghiệm chụp Xquang nào.
  • Xét nghiệm X-quang sử dụng tia X, đây là một loại tia phóng xạ, nhưng các thiết bị hiện đại ngày nay dùng liều rất thấp và an toàn hơn trước đây rất nhiều. (Xem thêm bài: Hiểu về nguy cơ phóng xạ từ các xét nghiệm hình ảnh nếu cần.)
  • Công nghệ X-quang kỹ thuật số hiện nay cho phép hình ảnh được lưu trữ trên máy tính, có thể chỉnh độ sáng – tương phản và dễ dàng gửi đến các cơ sở y tế khác.
  • Nếu bạn sắp làm xét nghiệm Xquang có dùng thuốc cản quang, hãy thông báo cho bác sĩ nếu bạn dị ứng với chất cản quang, iod hoặc hải sản, vì những yếu tố này có thể làm tăng nguy cơ phản ứng.

Nguồn: Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ

Đường dẫn: https://www.cancer.org/cancer/diagnosis-staging/tests/imaging-tests/x-rays-and-other-radiographic-tests.html

Biên dịch: ThS. BSNT. Nguyễn Hà Khương - Khoa chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội

Hiệu đính: ThS.BS. Nguyễn Thanh Hằng – Phòng HTQT-NCKH

Gói khám tầm soát ung thư