Tế bào tiền ung thư có thể xuất hiện ở hầu hết các bộ phận trên cơ thể, bao gồm da, vú, đại tràng và cổ tử cung. Khác với tế bào ung thư, tế bào tiền ung thư không xâm lấn vào mô lân cận và không lan tới các cơ quan xa.
Trong nhiều trường hợp, những tế bào bất thường sẽ không thay đổi hoặc thậm chí trở lại bình thường. Đa số tế bào tiền ung thư không biến thành tế bào ung thư xâm nhập.
Các tổn thương tiền ung thư có thể từ tân sản lành tính (khối u không xâm lấn mô lành xung quanh hoặc các cơ quan xa) tới loạn sản (một khối tạo thành từ các tế bào có mức độ bất thường cao).
Tình trạng loạn sản nặng có thể được coi là ung thư biểu mô tại chỗ, một số người gọi tình trạng này là “ung thư sớm”, một số người khác lại gọi là tổn thương tiền ung thư.
Nếu tế bào tiền ung thư được loại bỏ trước khi chúng trở thành ung thư thì trên lý thuyết, nguy cơ mắc ung thư sẽ bị loại bỏ. Tuy nhiên, điều này không đúng hẳn vì nguyên nhân cơ bản có thể vẫn tồn tại, khiến người bệnh có nguy cơ có những tế bào tiền ung thư khác.
Vì vậy, điều quan trọng là biết bản thân có tế bào tiền ung thư hay không để có thể theo dõi thường xuyên, dù có loại bỏ các tế bào này hay không.
Các loại tổn thương tiền ung thư
Tiến triển của polyp dạng u tuyến ở đại trực tràng. Nguồn ảnh: www.iconspecialistcentre.hk
Phần lớn ung thư (khoảng 85%) phát triển từ tế bào biểu mô. Những tế bào này có thể tìm thấy ở da, niêm mạc và lót bề mặt của đa số các tạng.
Những tổn thương tiền ung thư thường phát triển từ biểu mô gồm:
· Tân sản nội biểu mô cổ tử cung (CIN): Có thể phát triển thành ung thư cổ tử cung
· Barrett thực quản: Có thể phát triển thành ung thư thực quản
· Quá sản tiểu thuỳ không điển hình: Có thể phát triển thành ung thư vú
· Polyp dạng u tuyến ở đại tràng: Có thể phát triển thành ung thư đại tràng
· Dày sừng ánh sáng (Dày sừng quang hoá): Có thể phát triển thành ung thư tế bào vảy ở da
· Loạn sản biểu mô khoang miệng: Có thể phát triển thành ung thư miệng hoặc ung thư họng
· Nốt ruồi loạn sản: Có thể phát triển thành ung thư hắc tố da
· Loạn sản biểu mô phế quản: Có thể phát triển thành ung thư phổi
· Viêm teo dạ dày: Có thể phát triển thành ung thư dạ dày
· Bệnh Bowen: Có thể phát triển thành ung thư da xâm nhập
Ngoài biểu mô, ung thư có thể bắt nguồn từ tế bào máu hoặc các tế bào chuyên biệt như tế bào mầm ở buồng trứng. Tổn thương tiền ung thư có thể phát triển từ các tế bào không phải biểu mô gồm:
· Bệnh Gammopathy thể đơn dòng không xác định (MGUS): Có thể phát triển thành đa u tuỷ xương
· U tế bào mầm buồng trứng lành tính: Có thể phát triển thành ung thư buồng trứng
Nguyên nhân hình thành tế bào tiền ung thư là gì?
Có khá nhiều yếu tố có thể làm tế bào trở thành tiền ung thư, tuỳ thuộc vào từng loại tế bào.
Đa số trường hợp sẽ có nhiều yếu tố góp phần làm tăng nguy cơ, bao gồm di truyền, nội tiết tố, tình trạng nhiễm trùng, tác nhân gây ung thư (carcinogen), thậm chí là stress. Các yếu tố này phối hợp với nhau, làm biến đổi các tế bào sao chép bình thường thành các tế bào sao chép bất thường.
Nhiễm trùng
Nhiễm virus, vi khuẩn và kí sinh trùng là nguyên nhân gây ra 15 – 20% số ca ung thư trên thế giới. Trong đó, virus gây u nhú ở người (human papillomavirus – HPV) có thể gây viêm nhiễm, dẫn tới hình thành tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung và niêm mạc. Đa số trường hợp nhiễm HPV đều khỏi mà không xảy ra biến đổi bất thường, tuy nhiên một số trường hợp có thể tiến triển và gây ra sự phát triển của tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung, hậu môn, dương vật, miệng và họng. Phần lớn ung thư cổ tử cung có liên quan đến tình trạng nhiễm HPV.
Ví dụ khác là vi khuẩn Helicobacter pylori (H. pylori). Loại vi khuẩn phổ biến này gây viêm dạ dày, có thể dẫn tới viêm teo dạ dày mạn tính. Trong một số trường hợp, tình trạng này có thể tiến triển thành ung thư dạ dày.
Viêm mạn tính
Viêm mạn tính, dai dẳng có thể gây ra những biến đổi tiền ung thư ở các mô.
Ví dụ, bệnh trào ngược dạ dày - thực quản (GERD) – một tình trạng trào ngược axit mạn tính – có thể dẫn tới tổn thương tiền ung thư được gọi là Barrett thực quản. Mỗi năm, có khoảng 0,5% trường hợp Barrett thực quản tiến triển thành ung thư thực quản.
Một ví dụ khác là bệnh viêm ruột mạn tính (IBD). Tình trạng viêm dai dẳng do viêm ruột mạn tính có thể dẫn đến việc hình thành polyp đại tràng. Những polyp loạn sản phát triển nhanh, quá mức hoặc bất thường, có nguy cơ tiến triển thành ung thư đại tràng cao hơn.
Tiếp xúc với hoá chất
Các chất được biết tới là nguyên nhân gây ung thư được gọi là tác nhân gây ung thư. Đó có thể là những hoá chất sử dụng trong môi trường công nghiệp như nhà máy hoặc hầm mỏ. Ngoài ra, các hoá chất có thể được tìm thấy trong môi trường sống, trong cộng đồng hoặc trong môi trường tự nhiên.
Ví dụ về những tác nhân đã được biết là gây ung thư ở người:
· A-mi-ăng
· A-sen (thạch tín)
· Benzen
· Beryli
· Vinyl chloride
Ví dụ về những tác nhân có thể gây ung thư ở người:
· Chloroform
· DDT
Khi nào tế bào tiền ung thư sẽ trở thành ung thư?
Trong hầu hết trường hợp, không thể khẳng định liệu tế bào tiền ung thư có trở thành ung thư hay không. Câu trả lời phụ thuộc phần lớn vào loại tế bào cũng như mức độ biến đổi bất thường (phân độ) của chúng.
Phân độ là một phương pháp xác định mức độ bất thường của tế bào ở cấp độ vi thể. Hệ thống phân độ có thể khác nhau dựa vào loại tế bào nhưng chúng thường đánh giá biến đổi về cấu trúc (biến đổi trong mô và nhóm tế bào) và biến đổi về tế bào (biến đổi của từng tế bào).
Sự biến đổi của tổn thương được chấm điểm dựa trên mức độ bình thường hoặc bất thường của chúng. Mô hoặc tế bào giống bình thường sẽ được chấm điểm thấp, biến đổi càng bất thường điểm càng cao. Tổng điểm sẽ được dùng để xác định mức độ loạn sản.
Đối với loạn sản biểu mô khoang miệng, phân độ được chia thành:
· 0 – 10: Không loạn sản
· 11 – 25: Loạn sản nhẹ
· 26 – 45: Loạn sản vừa
· Trên 45: Loạn sản nặng
Mặc dù có nhiều hệ thống phân độ khác nhau cho các tổn thương khác nhau nhưng chúng vẫn tuân theo nguyên tắc chung: Phân độ càng cao thì tổn thương tiền ung thư càng có nguy cơ trở thành ung thư. Phân độ cũng có thể giúp xác định liệu người bệnh có cần điều trị ngay hay chỉ cần được theo dõi chặt chẽ.
Tổn thương tiền ung thư nguy hiểm như thế nào?
Tế bào tiền ung thư có thể biến đổi thành ung thư hoặc không. Vì đây là những tế bào bất thường nên điều quan trọng là phải được theo dõi hoặc trong một số trường hợp phải loại bỏ chúng để giảm thiểu nguy cơ mắc ung thư của người bệnh.
Quyết định điều trị không chỉ phụ thuộc vào kết quả giải phẫu bệnh mà còn cần sự trao đổi giữa người bệnh và bác sĩ để đưa ra lựa chọn sẽ theo dõi hay điều trị.
Phương pháp điều trị tổn thương tiền ung thư
Điều trị tổn thương tiền ung thư phụ thuộc vào vị trí tổn thương. Một số trường hợp chỉ cần theo dõi chặt chẽ để xem tổn thương loạn sản có tiến triển hay sẽ biến mất. Một số trường hợp khác được điều trị để dự phòng hoặc sau khi đã cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ của điều trị.
Áp lạnh hoặc phẫu thuật
Thông thường, tổn thương tiền ung thư có thể được loại bỏ bằng phương pháp áp lạnh. Đây là phương pháp làm lạnh tế bào ở nhiệt độ từ -150 đến -100 độ C để tiêu diệt tế bào.
Khi không có chỉ định áp lạnh (như đối với tổn thương loạn sản lớn), người bệnh có thể được phẫu thuật để loại bỏ tổn thương và một phần mô lành xung quanh. Đây được gọi là phẫu thuật cắt bỏ được thực hiện với gây tê tại chỗ.
Tuy nhiên, kể cả khi tổn thương loạn sản cổ tử cung đã được loại bỏ, người bệnh vẫn cần được tiếp tục theo dõi bằng xét nghiệm Pap smear. Tương tự, sau khi điều trị Barrett thực quản bằng phương pháp áp lạnh, người bệnh vẫn cần tái khám định kỳ để kiểm tra xem bệnh có tái phát hay không.
Hoá trị dự phòng
Đối với một số tổn thương, bác sĩ có thể để nghị hoá trị dự phòng. Phương pháp này sẽ sử dụng thuốc để làm giảm nguy cơ tổn thương tiền ung thư tái phát sau khi điều trị.
Ví dụ, trong trường hợp nhiễm H.pylori, bác sĩ có thể kê thuốc kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn, vì đây là tác nhân có thể gây ra tổn thương tiền ung thư và ung thư dạ dày.
Thay đổi lối sống
Tiến triển của tổn thương tiền ung thư có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh, bao gồm thức ăn, chế độ luyện tập và thói quen sinh hoạt hàng ngày.
Ví dụ, chế độ ăn chứa một số loại vitamin nhất định có thể giúp cơ thể đào thải virus HPV nhanh hơn. Bỏ hút thuốc cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc nhiều loại ung thư nói chung và ung thư phổi nói riêng.
Hút thuốc lá và ung thư cổ tử cung cũng có mối liên quan tương tự. Dù hút thuốc lá không phải “nguyên nhân” gây ra ung thư cổ tử cung nhưng hút thuốc lá kết hợp với tình trạng nhiễm HPV sẽ làm tăng nguy cơ hình thành ung thư.
Tổng kết
Tế bào tiền ung thư là những tế bào có biến đổi bất thường nhưng chưa phát triển thành tế bào ung thư. Trong nhiều trường hợp, chúng sẽ không tiến triển thành ung thư. Tuy nhiên, ung thư có thể phát triển từ những tổn thương này. Vì vậy, điều quan trọng là phát hiện ra tổn thương tiền ung thư bằng việc khám sàng lọc định kỳ và các biện pháp khác.
Những biến đổi bất thường được tìm thấy ở những tế bào này phát sinh từ một số nguyên nhân như nhiễm trùng, viêm nhiễm hoặc tiếp xúc với các yếu tố từ môi trường. Một số tổn thương tiền ung thư chỉ cần theo dõi chặt chẽ. Một số khác cần điều trị phụ thuộc vào vị trí tổn thương và nguyên nhân có thể đã gây ra tổn thương này.
Người bệnh cần trao đổi với bác sĩ về tổn thương tiền ung thư của mình cũng như các phương án xử trí phù hợp.
Nguồn: Dịch từ www.verywellhealth.com
Đường dẫn: https://www.verywellhealth.com/what-are-precancerous-cells-2248796
Biên dịch: BS. Đào Thanh Lan, Khoa Giải phẫu bệnh – Tế bào
Hiệu đính: ThS.BS. Nguyễn Thanh Hằng – Phòng Hợp tác Quốc tế và Nghiên cứu Khoa học